Liệt kê và download:
Do sử dụng phương pháp boot-132 để khởi tạo môi trường cho Mac, chúng ta cần đĩa cài đặt retail của Mac OS X và một đĩa boot khởi tạo.
Đĩa boot khởi tạo môi trường EFI: Empire EFI 1.085 hoặc 1.085 R2 (download tại đây – chọn phiên bản thích hợp cho PC của mình).
Đĩa retail Mac OS X phiên bản Snow Leopard 10.6.3 (mới nhất hiện nay). Các bạn có thể mua từ các cửa hàng Apple với giá 29$, hoặc download tại đây. Do có dung lượng gần 7GB nên chúng ta cần một đĩa DVD+R double-layer.
Bootloader: Chameleon 2 RC4. Download tại đây.
DSDT Patcher GUI. Download tại đây.
OSX86 Tools Utility. Download tại đây.
Voodoo HDA kexts. Download tại đây.
Boot screen gốc hoặc theme cho Chameleon để làm đẹp. Tham khảo tại đây.
VIII/ Giới thiệu các bước cài đặt
1. Thiết lập lại BIOS.
2. Khởi động với đĩa giả lập EFI.
3. Boot đĩa retail Mac OS X.
4. Chia và format phân vùng Mac OS X.
5. Cài đặt và khởi động vào Mac OS X lần đầu.
6. Cài đặt bootloader, kext cơ bản.
7. Cài đặt các thiết bị.
Đầu tiên chúng ta giải quyết nhanh 3 bước đầu.
Do sử dụng phương pháp boot-132 để khởi tạo môi trường cho Mac, chúng ta cần đĩa cài đặt retail của Mac OS X và một đĩa boot khởi tạo.
Đĩa boot khởi tạo môi trường EFI: Empire EFI 1.085 hoặc 1.085 R2 (download tại đây – chọn phiên bản thích hợp cho PC của mình).
Đĩa retail Mac OS X phiên bản Snow Leopard 10.6.3 (mới nhất hiện nay). Các bạn có thể mua từ các cửa hàng Apple với giá 29$, hoặc download tại đây. Do có dung lượng gần 7GB nên chúng ta cần một đĩa DVD+R double-layer.
Bootloader: Chameleon 2 RC4. Download tại đây.
DSDT Patcher GUI. Download tại đây.
OSX86 Tools Utility. Download tại đây.
Voodoo HDA kexts. Download tại đây.
Boot screen gốc hoặc theme cho Chameleon để làm đẹp. Tham khảo tại đây.
VIII/ Giới thiệu các bước cài đặt
1. Thiết lập lại BIOS.
2. Khởi động với đĩa giả lập EFI.
3. Boot đĩa retail Mac OS X.
4. Chia và format phân vùng Mac OS X.
5. Cài đặt và khởi động vào Mac OS X lần đầu.
6. Cài đặt bootloader, kext cơ bản.
7. Cài đặt các thiết bị.
Đầu tiên chúng ta giải quyết nhanh 3 bước đầu.
1. Thiết lập lại BIOS: chúng ta cần thiết lập BIOS sao cho giống nhất với một chiếc Macintosh.
Đầu tiên là disable floppy disk.
Đầu tiên là disable floppy disk.
Tiếp theo tạm thời tắt C1E/C2E/C4E gì đó của CPU đi (có thể gây rắc rối khi boot), về sau cài đặt kext đầy đủ chúng ta sẽ bật lại.
Mac chỉ sử dụng AHCI nên chúng ta cũng chuyển qua thiết lập này cho các cổng SATA. Tiện thể enable USB support cho keyboard và mouse. Mac không hỗ trợ cổng PS/2 trên PC nên tốt nhất là keyboard và mouse sử dụng USB. Nếu không chúng ta cũng có thể cài đặt kext cho PS/2 keyboard/mouse.
Bật HPET (High Precision Event Timer) nếu có và chuyển về chế độ 32bit. Nếu bạn dự định chạy kernel của Mac ở mode 64bit thì chuyển HPET sang 64bit.
2. Khởi động với đĩa giả lập EFI.
Tiếp theo bỏ đĩa EFI vào và boot tới khi xuất hiện màn hình như trong hình. Bạn có thể sử dụng các bản EFI khác nhau, như với mainboard P55 có thể sử dụng bản của tonymacx86. Bài viết này tôi sử dụng Empire EFI, đây là bản EFI nổi tiếng nhất và có đầy đủ các phiên bản support cho các hệ PC khác nhau, bao gồm cả P55 và ATI VGA và một số dòng CPU & chipset AMD cũ.
3. Boot đĩa retail Mac OS X.
Tiếp theo lấy đĩa EFI ra, bỏ đĩa Mac OS X retail vào, đợi khoảng 20s (quan trọng) và nhấn F5. Khi đĩa Mac OS X Install DVD xuất hiện trong menu thì chọn boot.
Tiếp theo sau khi load các kext default thì ta enter để load tiếp kernel. Nếu sau bước này các bạn có thể boot vào tới màn hình chào mừng của Mac OS X Installation thì coi như bước 3 thành công. Nếu không, xem lại đĩa EFI của bạn hoặc đổi sang bản khác.
IX/ Chia phân vùng
Chia và format phân vùng Mac OS X.
Sau khi màn hình install Mac OS X xuất hiện, bước tiếp theo cần làm là chia đĩa và format.
Bản Mac OS X 10.5 Leopard vẫn còn hỗ trợ đồng thời 2 kiểu phân vùng ổ cứng MBR và GPT, nhưng kể từ Mac OS X 10.6 thì Apple đã chuyển hẳn sang sử dụng GPT. MBR và GPT là 2 định dạng phân vùng ổ cứng khác nhau, quy định cách thức lưu trữ các thông tin về partition (phân vùng), boot sector cũng như Master boot record trên đĩa. MBR và GPT không liên quan gì đến hệ thống tập tin (file system) cả, đó là cách mỗi phân vùng tổ chức và quản lý dữ liệu (các file) của riêng mình. Kể từ Windows Vista SP1 trở đi Microsoft mới chính thức hỗ trợ định dạng ổ đĩa GPT.
Cấu trúc MBR
Tất nhiên các ổ cứng PC đều được phân vùng theo chuẩn MBR là chủ yếu, dù rằng GPT (như trong hình) cho thấy nhiều tính năng tiến bộ hơn. điều này một phần là do Windows mới chỉ hỗ trợ GPT gần đây chứ chưa chuyển hẳn qua, và một lý do khác nữa là các trình chia đĩa (partitioner) cũ như Acronis Disk Director và Partition Magic chỉ hỗ trợ MBR mà thôi. Ngay cả các chương trình backup như Acronis True Image cũng chỉ hỗ trợ MBR, phiên bản mới nhất mới bắt đầu hỗ trợ GPT. Tạm thời chúng ta không bàn tới thế giới của Linux, chú chim cánh cụt này hỗ trợ được tất cả các chuẩn ngay khi ra mắt do đặc tính mã nguồn mở của mình.
Để chia partition và format đĩa cứng, các bạn truy cập vào Disk Utility trong menu Utilities.
Lưu ý: format theo chuẩn GPT sẽ xóa trắng toàn bộ ổ cứng của bạn (hiện đang theo chuẩn MBR), sau đó mới tiến hành phân vùng. Do vậy bạn nên sử dụng một ổ cứng riêng cho Snow Leopard, hoặc có thể tìm download bản OS X đã được sửa đổi để hỗ trợ MBR. Nếu bạn sử dụng bản Snow Leopard MBR, sau khi chia và format HFS+, nhớ dùng Acronis Disk Director để chuyển phân vùng đó thành primary active mới có thể cài đặt được.
Lưu ý: format theo chuẩn GPT sẽ xóa trắng toàn bộ ổ cứng của bạn (hiện đang theo chuẩn MBR), sau đó mới tiến hành phân vùng. Do vậy bạn nên sử dụng một ổ cứng riêng cho Snow Leopard, hoặc có thể tìm download bản OS X đã được sửa đổi để hỗ trợ MBR. Nếu bạn sử dụng bản Snow Leopard MBR, sau khi chia và format HFS+, nhớ dùng Acronis Disk Director để chuyển phân vùng đó thành primary active mới có thể cài đặt được.
Đây là hướng dẫn cho GPT: Nhấn vào ổ đĩa muốn cái đặt (tên đĩa cứng chứ không phải phân vùng), vào mục Partition. Chọn số partition muốn tạo (1 hoặc nhiều hơn). Nhấn Option và chọn GUID Partition Table (GPT). Điền tên cho mỗi phân vùng, chọn format Mac OS Extended (Journaled) hay còn gọi là HFS+ cho phân vùng cài đặt. Cuối cùng là nhấn Apply.
HFS+ của Mac và NTFS của Windows đều là 2 hệ thống tập tin tiên tiến và có nhiều ưu điểm. Thời kì FAT32 cũ kĩ, hệ thống tập tin này chỉ lưu được những file có dung lượng <4GB mà thôi, đồng thời không có được khả năng chịu lỗi cũng như tự sửa lỗi và bảo trì (self-correcting & maintenance). NTFS được Microsoft phát triển, tích hợp nhiều tính năng quan trọng như khả năng ghi nhật kí (journaling), tích hợp hệ thống phân quyền tập tin ACL (Access Control List), hỗ trợ mã hóa, nén dữ liệu và hàng tá những thứ khác. NTFS được đưa vào sử dụng từ thời Windows 2000 mãi cho tới nay.
Ở bên kia chiến tuyến, HFS+ (Hierarchical File System Plus) cũng được Apple trang bị nhiều vũ khí hạng nặng không kém. HFS+ hỗ trợ Unicode UTF-16, khả năng lưu giữ tập tin với dung lượng file lớn không hạn chế. Tuy không hỗ trợ transparent encryption nhưng HFS+ có khả năng nén dữ liệu rất mạnh mà không làm ảnh hưởng nhiều tốc độ truy cập. Giống với Windows sử dụng ACL, HFS+ hỗ trợ hệ thống phân quyền Unix Permissions (sẽ nhắc tới ở phần cài đặt kext). HFS+ còn có khả năng bật tắt tính năng ghi nhật kí (journaling) nhằm tăng cường chống lỗi trong trường hợp mất điện. Đặc biệt, HFS+ có khả năng chống phân mảnh (Mà NTFS và Windows không có) đối với các tập tin dung lượng < 20MB, đồng nghĩa với việc bạn không phải bận tâm về việc defragment ổ đĩa của mình nữa.
Từ Mac OS X 10.5 trở đi, Apple đã tích hợp vào OS của mình khả năng read-only với phân vùng NTFS. Với Windows, tuy chưa được hỗ trợ từ Microsoft nhưng cũng có thể dùng một phần mềm hãng thứ 3 như Mac Drive để truy cập phân vùng HFS+.
Lưu ý phát nữa: các bước trên đây đều có khả năng ảnh hưởng đến dữ liệu trên ổ cứng của bạn, vì vậy suy nghĩ kĩ trước khi hành động. Tác giả không chịu bất kì trách nhiệm nào trong trường hợp mất mát xảy ra.
X/ Boot & Installation
Sau khi format xong thì chúng ta thẳng tiến tới màn hình cài đặt. Trước khi nhấn Install cần customize lại để lựa chọn một vài thứ. Rosetta là một phần mềm giả lập để Mac chạy được các phần mềm viết cho kiến trúc PowerPC cũ, vì vậy cứ select cho an tâm.
Sau khi cài đặt xong (khoảng 20 phút), máy sẽ khởi động lại. Ở bước này các bạn lại bỏ đĩa EFI vào boot (do chưa có bootloader trên đĩa cứng). Chọn phân vùng vừa mới cài Snow Leopard và tiếp tục.
Ở bước này có thể sẽ có một vài máy không boot được (treo giữa chừng, xuất hiện thông báo kernel panic hoặc tương tự). Các bạn có thể sử dụng tham số cpus=1 (chỉ sử dụng 1 nhân CPU) để tiếp tục. Sau khi cài đặt hoàn chỉnh chúng ta có thể boot bình thường.
5. Cài đặt và khởi động vào Mac OS X lần đầu.
Sau khi xuất hiện màn hình welcome của Apple Mac OS X (chúc mừng được 70% rồi nhé), bạn điền các thông số cho tài khoản người dùng và tiếp tục. Desktop cùng dock và menu quen thuộc của Mac hiện ra.
Ở bước này có thể sẽ có một vài máy không boot được (treo giữa chừng, xuất hiện thông báo kernel panic hoặc tương tự). Các bạn có thể sử dụng tham số cpus=1 (chỉ sử dụng 1 nhân CPU) để tiếp tục. Sau khi cài đặt hoàn chỉnh chúng ta có thể boot bình thường.
5. Cài đặt và khởi động vào Mac OS X lần đầu.
Sau khi xuất hiện màn hình welcome của Apple Mac OS X (chúc mừng được 70% rồi nhé), bạn điền các thông số cho tài khoản người dùng và tiếp tục. Desktop cùng dock và menu quen thuộc của Mac hiện ra.
Việc đầu tiên chúng ta cần làm là tắt chức năng sleep của hệ thống. Nó có thể gây treo máy và nhiều lỗi linh tinh khác. Bật System Preferences trên thanh dock, vào Energy Saver và tắt như trong hình.
6. Cài đặt bootloader, kext cơ bản.
6. Cài đặt bootloader, kext cơ bản.
Tiếp theo chúng ta sẽ cài đặt bootloader và các kext cơ bản của hệ thống. Vào đĩa Empire EFI, thư mục Extra/Post-Installation và chạy gói cài đặt myHack. Chương trình này sẽ cài đặt Chameleon 2.0 RC3, PC EFI 10.5, FakeSMC v2, lspci, pfix v2.1.1 để bạn có thể boot mà không cần đĩa EFI nữa đồng thời cũng có các kext cơ bản cần thiết. Nhớ đọc kĩ hướng dẫn sử dụng trước khi chọn bất kì mục nào. Giữ trong đầu tư tưởng “thiếu còn hơn thừa”, vì thiếu thì có thể boot vào lại cài thêm, còn thừa thì mất công lắm.
Sau khi cài đặt xong đừng restart vội. Tôi sẽ hướng dẫn các bạn cài đặt Chameleon 2 RC4. Nhét USB chứa Chameleon 2 RC4 đã chuẩn bị từ đầu, giải nén và copy thư mục Chameleon ra desktop.
Tiếp theo tìm thư mục Extra trên thư mục root phân vùng cài đặt SL. Copy các thứ trong Chameleon/Optional Extras vào theo như trong hình.
Bật chương trình terminal (đường dẫn /Applications/Utilities/Terminal.app) lên và gõ các lệnh cài đặt như sau:
sudo -s (nhập password khi tạo user account vào để chuyển sang chế độ super user).
cd Desktop/Chameleon/i386
diskutil list (liệt kê tên các ổ đĩa trên máy – ghi lại tên của ổ đĩa cài Mac OS X, của tôi là đĩa disk0, phân vùng disk0s2).
fdisk -f boot0 -u -y /dev/rdisk0 (ghi master boot record cho đĩa).
dd if=boot1h of=/dev/rdisk0s2 (ghi boot sector cho phân vùng).
cp boot / (copy file boot vào root).
cd Desktop/Chameleon/i386
diskutil list (liệt kê tên các ổ đĩa trên máy – ghi lại tên của ổ đĩa cài Mac OS X, của tôi là đĩa disk0, phân vùng disk0s2).
fdisk -f boot0 -u -y /dev/rdisk0 (ghi master boot record cho đĩa).
dd if=boot1h of=/dev/rdisk0s2 (ghi boot sector cho phân vùng).
cp boot / (copy file boot vào root).
Sau khi hoàn thành các bước trên thì chúng ta có thể restart máy được rồi.
Restart và màn hình bootloader Chameleon sẽ hiện ra, chọn Snow Leopard và boot. Tiếp theo chúng ta sẽ xử lý phần còn lại: driver (kext) cho các thiết bị VGA, ethernet và sound.
7. Cài đặt các thiết bị
Mở Apple menu, chọn About This Mac, nhấn More Info để xem thông tin các thiết bị. Đảm bảo ổ cứng và hệ thống USB đã được nhận diện đầy đủ. VGA của tôi dùng là Geforce 9600GT chưa được nhận diện đầy đủ dù đã cài gói Graphics Enabler (QE/CI chưa enable, chỉ mới ở chế độ software accelerated, chưa nhận đúng độ phân giải, chưa có hiệu ứng gợn sóng khi add widget vào dashboard). Có nhiều cách để khiến cho VGA của bạn hoạt động. Đầu tiên nên check trên insanelymac xem VGA của mình có nằm trong diện hỗ trợ hay không.
Chủ yếu có 3 cách để activate VGA: cài đặt customized kext, add EFI string hoặc patch DSDT. Ngoài ra còn có thể sử dụng các gói graphics enabler tìm được trên mạng (tự động hóa công việc add kext hoặc add EFI string cho bạn mà thôi). Ở đây tôi dùng cách add EFI string bằng phần mềm OSX86 Tools. Các cách khác các bạn có thể tham khảo thêm trên insanelymac. VGA ATI hay NVIDIA đều có thể activate như nhau, miễn là nằm trong diện hỗ trợ.
Hướng dẫn: Chạy OSX86 tools, chọn add EFI strings. Chọn tiếp GFX strings, nếu tên VGA của bạn không có trong danh sách (như trường hợp của tôi) thì chọn Custom Graphics Card. Sau đó điền tên, select dung lượng bộ nhớ, cổng kết nối, cuối cùng là “Import String to Boot Editor” và “Apply changes to com.apple.Boot.plist”.
Lưu ý: OSX86 Tools được viết để chạy trên Leopard 10.5, do vậy các tính năng khác hoạt động không chính xác.
Chủ yếu có 3 cách để activate VGA: cài đặt customized kext, add EFI string hoặc patch DSDT. Ngoài ra còn có thể sử dụng các gói graphics enabler tìm được trên mạng (tự động hóa công việc add kext hoặc add EFI string cho bạn mà thôi). Ở đây tôi dùng cách add EFI string bằng phần mềm OSX86 Tools. Các cách khác các bạn có thể tham khảo thêm trên insanelymac. VGA ATI hay NVIDIA đều có thể activate như nhau, miễn là nằm trong diện hỗ trợ.
Hướng dẫn: Chạy OSX86 tools, chọn add EFI strings. Chọn tiếp GFX strings, nếu tên VGA của bạn không có trong danh sách (như trường hợp của tôi) thì chọn Custom Graphics Card. Sau đó điền tên, select dung lượng bộ nhớ, cổng kết nối, cuối cùng là “Import String to Boot Editor” và “Apply changes to com.apple.Boot.plist”.
Lưu ý: OSX86 Tools được viết để chạy trên Leopard 10.5, do vậy các tính năng khác hoạt động không chính xác.
Sau khi khởi động lại VGA đã nhận diện đầy đủ, QE/CI enabled và nhận đúng độ phân giải màn hình (và nhất là đã có thể chụp screenshot trực tiếp). Tiếp theo chúng ta xử lý sound và Ethernet.
Sound và Ethernet:
Sound và Ethernet:
Ethernet của mainboard EP45-UD3L là Realtek 8169, được hỗ trợ mặc định bởi Apple, vì vậy chạy được ngay mà không cần can thiệp. Các bạn có thể vào System Preferences phần Network, kiểm tra MAC Address và IP xem đã được cấp đúng chưa. Nếu các bạn sử dụng Ethernet không được nhận diện mặc định, có thể tìm thêm kext trên http://www.kexts.com/ và xem thêm hướng dẫn trong box LAN and Wireless tại InsanelyMac. Cách cài đặt kext sẽ được hướng dẫn ở phần cuối bài.
Sound của tôi là Realtek ALC888 chưa hoạt động, chúng ta cần cài đặt VoodooHDA. Extract gói VoodooHDA đã chuẩn bị ban đầu, copy VoodooHDA.kext vào /System/Library/Extensions/ sau đó bật terminal gõ các lệnh sau:
sudo chmod -R 775 /System/Library/Extensions/VoodooHDA.kext
sudo chown -R root:wheel /System/Library/Extensions/VoodooHDA.kext 2 lệnh này nhằm sửa lại permission của kext cho chính xác. Sau đó chúng ta khởi động lại.
Sau khi restart kiểm tra sound đã hoạt động chưa (System Preferences -> Sound). Nếu đã hoạt động thì ta cài thêm panel điều khiển cho sound. Double click vào tập tin VoodooHDA.prefpane để cài đặt. Trong System Preferences sẽ xuất hiện thêm một panel mới để điều khiển các thiết lập cho sound chip.
XI/ Các vấn đề sau cài đặt
Các bạn có thể sẽ gặp phải một số vấn đề nếu việc lựa chọn kext cơ bản (ở bước cài đặt gói myHack) sai hoặc thiếu. Trong trường hợp này chúng ta chỉ việc chạy lại gói cài đặt và lựa chọn lại là xong. Đối với PC có sử dụng các thiết bị keyboard hoặc mouse PS/2, bắt buộc phải cài kext cho PS/2.
Đối với các thành phần khác trong PC, trở ngại lớn nhất là graphics card. Nếu bạn sử dụng NVIDIA thì hầu hết card từ 5200 trở về sau đều có thể cài đặt thành công, bao gồm cả GT200 series. Điểm quan trọng nhất đối với graphics card là hardware accelerated, phải có Quartz Extreme / Core Image enabled (Desktop Compositor và Image Processing quan trọng của Mac). Để kiểm tra QE/CI đã bật hay chưa, các bạn có thể add thử một widget vào dashboard, nếu có hiệu ứng ripple (gợn sóng) thì QE/CI đã enabled. Một đặc điểm khác là VGA nhận đúng độ phân giải của màn hình cùng color profile cho màn hình đó.
Với cách add EFI string thì đảm bảo card đồ họa của bạn có thể sử dụng hết khả năng của mình như trên máy Mac nguyên gốc và không hề gặp bất cứ trục trặc gì. Dù không thể tận dụng các tập lệnh DirectX vốn được viết riêng cho Windows, nhưng khả năng sử dụng OpenGL / OpenCL cũng đã là quá đủ cho Mac. Nếu VGA không họat động đầy đủ (chỉ có software accelerated), các bạn sẽ không thể chạy các phần mềm đòi hỏi tính năng đồ họa nâng cao trên Mac như bộ iWork, iLife cùng nhiều phần mềm khác. Do vậy đảm bảo VGA họat động được là yếu tố cần nhất trên Mac.
Các thiết bị như Ethernet hiện đã có khá nhiều vendor / device họat động được trên Mac. Tuy nhiên, nếu bạn không nằm trong số đó, các bạn có thể chữa cháy bằng một card Ethernet PCI sử dụng Realtek 8139 / 8169 (hỗ trợ out-of-the-box). Ethernet PCI 10/100 Mb/sec của DLink cũng sử dụng chip này.
Về sound chip, VoodooHDA hiện đã hỗ trợ rất nhiều sound chip khác nhau, từ Realtek cho tới Coxenant, Sigmatel, etc. Chất lượng âm thanh từ bản VoodooHDA 0.2.4.2 trở đi có thể đảm bảo không kém gì trên Windows.
Về vấn đề bị crash (kernel panic) khi mở file DMG, các bạn cần cài seatbelt.kext để khắc phục lỗi này. Một số lỗi khác các bạn có thể tham khảo thêm trên diễn đàn insanelymac.com.
Các hệ thống P55, X58 hoặc sử dụng ATI Radeon HD 4800 series có thể cài đặt Mac OS X dựa theo hướng dẫn trong bài, chỉ việc lưu ý khi chọn bản EFI và các kext cho thiết bị phù hợp mà thôi.
Sau khi cài xong bạn sẽ khởi động với màn hình khởi động có sẵn, nhưng có lẽ các bạn rất muốn đổi hình khởi động này. Cách đổi như sau: Ở ổ đĩa cài SL sẽ có thư mục Extra/Themes. file boot.png và background.png chính là 2 file bạn cần đổi để thay hình khởi động.
Chameleon cũng hỗ trợ việc thay đổi theme phục vụ cho nhu cầu làm đẹp của không ít bạn. Chỉ cần download theme ưng ý, copy thư mục theme vào /Extra/Themes/, sau đó thêm dòng sau vào file com.apple.Boot.plist (cũng trong thư mục Extra):
<key>Theme</key>
<string>THEME_NAME</string> Kết quả sẽ được như sau:
Kết luận:
Việc cài đặt Mac trên PC cho tới bây giờ vẫn thực sự là một công việc gian khổ và quá sức với không ít người. Việc cài đặt hàng chục, thậm chí hàng trăm lần để đi từ chỗ “không biết tí gì” tới “biết chút chút” đã là cả một vấn đề. Tuy nhiên, nó hoàn tòan không vô ích. Trong quá trình tìm hiểu và can thiệp sâu vào hệ điều hành, bạn sẽ có được không ít kiến thức quan trọng và quý giá mà nếu chỉ đọc sơ qua sách vở thì không thể nào hiểu được. Vượt qua tất cả những khó khăn đó, chịu khó bỏ ra thêm 3 ngày (hơi nhiều) để học sử dụng Mac OS X, tôi tin bạn sẽ hài lòng với thành quả của mình.
Ngoài cách cài Mac OS X với đĩa retail bằng phương pháp boot-132 trong bài, các bạn có thể tìm download các phiên bản tổng hợp / đóng gói sẵn (sửa đổi đĩa retail để tích hợp các thành phần cần thiết cho PC). Tuy nhiên khả năng cài đặt thành công là khá hạn chế, và bạn sẽ phải thử qua khá nhiều phiên bản khác nhau. Tôi đã từng thất bại với combo P55 + ATI VGA bằng phương pháp boot-132 do không tìm được đĩa EFI vừa ý, nhưng lại thành công khi sử dụng distro Snow 3.6 Universal.
Với nhiều bạn vẫn băn khoăn về khả năng gặp lỗi hay các phiền phức khác khi chạy Mac trên PC, tôi có thể khẳng định rằng, “hack” Mac trên PC gần như là việc “hack” hòan hảo nhất, tất nhiên là với những chiếc PC có cấu hình phần cứng gần giống Mac. Bản thân tôi cài đặt và sử dụng Mac trên PC đã gần 2 năm, và hòan toàn hài lòng với chiếc “Mac” của mình. Phương pháp boot-132 đã giảm thiểu tới mức thấp nhất việc can thiệp vào hệ điều hành (có chăng là mở rộng vài khả năng cho nó mà thôi). Nhân hệ điều hành cũng hoàn toàn không bị chỉnh sửa, do vậy sẽ không bao giờ xảy ra lỗi gì nghiêm trọng (crash, kernel panic) có nguyên nhân từ việc cài Mac trên PC cả. Đây là một bước tiến rất lớn so với các phương pháp can thiệp kernel trước đây.
Không phải cứ “hack” là sẽ gặp lỗi, ngược lại, ngay cả phần mềm do chính Apple thiết kế trên bản gốc còn có lỗi kia mà. Nếu bạn đủ may mắn cũng như khả năng để có được một chiếc hackintosh hoàn chỉnh, hãy tự hào tận hưởng thế giới mới này, vì bạn hoàn toàn có thể làm bất cứ điều gì một chiếc Mac thật có thể làm.
Việc cài đặt Mac trên PC cho tới bây giờ vẫn thực sự là một công việc gian khổ và quá sức với không ít người. Việc cài đặt hàng chục, thậm chí hàng trăm lần để đi từ chỗ “không biết tí gì” tới “biết chút chút” đã là cả một vấn đề. Tuy nhiên, nó hoàn tòan không vô ích. Trong quá trình tìm hiểu và can thiệp sâu vào hệ điều hành, bạn sẽ có được không ít kiến thức quan trọng và quý giá mà nếu chỉ đọc sơ qua sách vở thì không thể nào hiểu được. Vượt qua tất cả những khó khăn đó, chịu khó bỏ ra thêm 3 ngày (hơi nhiều) để học sử dụng Mac OS X, tôi tin bạn sẽ hài lòng với thành quả của mình.
Ngoài cách cài Mac OS X với đĩa retail bằng phương pháp boot-132 trong bài, các bạn có thể tìm download các phiên bản tổng hợp / đóng gói sẵn (sửa đổi đĩa retail để tích hợp các thành phần cần thiết cho PC). Tuy nhiên khả năng cài đặt thành công là khá hạn chế, và bạn sẽ phải thử qua khá nhiều phiên bản khác nhau. Tôi đã từng thất bại với combo P55 + ATI VGA bằng phương pháp boot-132 do không tìm được đĩa EFI vừa ý, nhưng lại thành công khi sử dụng distro Snow 3.6 Universal.
Với nhiều bạn vẫn băn khoăn về khả năng gặp lỗi hay các phiền phức khác khi chạy Mac trên PC, tôi có thể khẳng định rằng, “hack” Mac trên PC gần như là việc “hack” hòan hảo nhất, tất nhiên là với những chiếc PC có cấu hình phần cứng gần giống Mac. Bản thân tôi cài đặt và sử dụng Mac trên PC đã gần 2 năm, và hòan toàn hài lòng với chiếc “Mac” của mình. Phương pháp boot-132 đã giảm thiểu tới mức thấp nhất việc can thiệp vào hệ điều hành (có chăng là mở rộng vài khả năng cho nó mà thôi). Nhân hệ điều hành cũng hoàn toàn không bị chỉnh sửa, do vậy sẽ không bao giờ xảy ra lỗi gì nghiêm trọng (crash, kernel panic) có nguyên nhân từ việc cài Mac trên PC cả. Đây là một bước tiến rất lớn so với các phương pháp can thiệp kernel trước đây.
Không phải cứ “hack” là sẽ gặp lỗi, ngược lại, ngay cả phần mềm do chính Apple thiết kế trên bản gốc còn có lỗi kia mà. Nếu bạn đủ may mắn cũng như khả năng để có được một chiếc hackintosh hoàn chỉnh, hãy tự hào tận hưởng thế giới mới này, vì bạn hoàn toàn có thể làm bất cứ điều gì một chiếc Mac thật có thể làm.
Để cài đặt Windows 7 trên máy MacBook Air của bạn bằng cách sử dụng Boot Camp, bạn sẽ cần những đồ nghề sau đây:
USB 4Gb (làm bộ cài win), USB 1Gb hoặc 2Gb định dạng FAT để lưu boot camp drivers.
Bộ cài đặt Windows dưới dạng file .ISO
Khoảng 20GB không gian trống trở lên trên ổ đĩa cứng máy Mac của bạn.
Cài đặt Windows 7 qua Boot Camp
Đầu tiên đóng toàn tất cả các chương trình đang chạy có thể. Điều đó sẽ giúp quá trình cài đặt nhanh hơn và ít lỗi hơn.
Vào Utilities kích đúp vào Boot Camp Assistant.
Cửa sổ Select Tasks hiện ra chọn Remove Windows 7 or later version
Nhấp vào Continue trên màn hình Giới thiệu ban đầu.
Khi bạn đã xác định bao nhiêu không gian bạn muốn phân bổ cho Windows 7, nhấp vào nút Partition.
Đợi phân chia phân vùng.
Bây giờ cho USB chứa bộ cài Win vào / nhấn nút Start Installation .
Mac sẽ khởi động lại vào cài đặt Windows 7. Bạn chọn phần vùng BOOTCAMP để cài đặt Windows 7. Chọn Drive options (advanced).
Chọn Format.
Chọn OK.
Windows bắt đầu cài đặt.
Sau khi Windows cài đặt xong. Trong HĐH Windows bạn cắm USB định dạng FAT có chứa Boot camp Drivers vào máy rồi chạy file Setup.exe để boot camp cài đặt drivers cho hđh Windows:
( Bạn có thể download Boot Camp Drivers tại đây:
Lưu ý chọn đúng Boot Camp Support Software phù hợp với máy MAC của bạn.)
Chọn “I accept the terms in the license agreement ” kích Next.
Tích chọn “Apple Software Update for Windows ”, nhấn Install.
Boot Camp tự động cài đặt tất cả các trình điều khiển yêu cầu.
Thông báo (pop up) sẽ bật lên với mỗi trình điều khiển được cài đặt.
Sau khi hoàn thành, nhấn Finish.
Khởi động lại máy tính để quá trình cài đặt hoàn tất. Chọn Yes
Khi khởi động máy Mac của bạn, giữ phím Option để chọn hệ điều hành bạn muốn khởi động.
Nhận xét
Đăng nhận xét